Skip to main content
38 ngõ 495 Nguyễn Trãi, Thanh Xuân, Hà Nội

Tác giả: admin

THPT Quốc gia 2020 và kế hoạch ôn thi cấp tốc từ 1 “siêu cao thủ”

Chào mọi người, Ánh Tuyết lại được lên sóng FI, trong bài viết này, tôi sẽ chia sẻ những trải nghiệm của bản thân về một thứ gọi là “kế hoạch ôn thi cấp tốc”.

Ui cha mẹ ơi, nếu còn thời gian học thì học ngay đi nhé, đừng để nước đến chân mới nhảy, cái kế hoạch này chỉ được vạch ra vì hết thời gian rồi thôi. Nói trước với mọi người như vậy để tránh hiểu lầm là tôi tuyên truyền mọi người nên học vội trước thi. Nô nồ nố.

Okay, kế hoạch này được vạch ra vào đêm ngày 12/7, với 2 lý do chính: hổng nhiều chỗ do quãng thời gian ôn thi đội tuyển QG (môn toán phần phương trình mũ và loga siêu mơ hồ, chẳng thể nhớ đạo hàm của hàm loga là gì, môn văn có rất nhiều tác phẩm còn chưa hề đọc văn bản, hơi xấu hổ nhưng phải thú nhận là thế) và quá đen để học tủ (từ trước đến giờ linh cảm vào bài nào để ôn tủ là chắc chắn lần đấy ăn cám, thôi học hết cho nó lành). Kế hoạch này được dựa trên phương châm tác chiến “đánh chắc, tiến chắc” của Đại tướng Võ Nguyên Giáp trong trận Điện Biên Phủ năm 54 ? chém tý hihi. Cụ thể như sau:

1. Với môn Văn, Tuyết sẽ chia ngày ngày học bài này, ngày kia học bài kia, không nôn nóng, hốt hoảng mà dồn hết vào cùng một lúc. VD: 13/7 chỉ học “Tuyên ngôn Độc lập” thì chỉ học bài đó, phân tích chi tiết từng đoạn. 14/7 học “Tây Tiến” cũng học phân tích kỹ từng đoạn, từng hình tượng trong văn bản,… 19/7, sau khi đã học xong 3 tác phẩm đầu thì sẽ tự động mở ra ôn lại đúng 3 tác phẩm này, lần này ôn qua qua, nắm được ý để phân tích là ok. Tiếp tục xử lý các bài khác tương tự, nhất định không vội vàng. Ngoài tranh thủ xem bài giảng trên youtube, tôi còn nghĩ ra trò mới: đọc một bài mẫu, thu âm rồi trước khi đi ngủ và sáng ngủ dậy sẽ mở lên để nghe (coi như thay nghe nhạc luôn). Khi ngồi vào bàn học, trong lúc nghe đoạn đó sẽ lấy giấy bút vẽ sơ đồ ý chính theo dòng chảy của đoạn ghi âm đang nghe.

2. Toán với Pháp (môn tôi thi) thì cũng không cần quá gắt gao, bởi 2 môn này đều dựa trên kiến thức tích lũy trong thời gian dài, thỉnh thoảng rảnh rảnh thì kiếm đề ngồi làm để luyện kỹ năng xử lý bài thi thôi. Chỗ nào quên thì bồi chỗ đó, điều quan trọng là giữ được tâm lý bình tĩnh để đầu óc tỉnh táo, không quên hay nhầm những thứ lặt vặt.

3. Tôi dành 3 ngày cuối để ôn Sử, Địa, CD hòng mong ước trên điểm liệt, tôi không có ham hố giành điểm cao mấy môn này đâu nha. Tôi lên youtube search “Chống liệt sử”, và tìm được những video rất hay, kiến thức được tổng hợp rất ngắn gọn, chỉ cần nắm được sơ sơ là trên điểm liệt, thích mê luôn. Môn Địa thì nhờ có atlas thần thánh mà mọi chuyện trở nên thật đơn giản, còn GDCD à… hãy chuẩn bị một nhân phẩm tốt để đi thi là kiểu gì cũng điểm cao.

Nói tóm lại là như này, mỗi ngày đều phải lập ra một cái “to – do list” xác định rõ ràng phải hoàn thành nhiệm vụ gì trong hôm đó, và nhất định phải hoàn thành đấy nhé! Tìm được động lực học hành chưa phải là xong, chúng ta phải biết xây dựng cho mình cái gọi kỷ luật. Rất nhiều người có thói quen trì hoãn, “để mai tính” và nghĩ rằng hôm nay chơi nốt ngày mai sẽ chăm chỉ học bù. Nhưng nếu cứ tiếp tục giữ thói quen này, thời gian cứ thế trôi đi, càng những ngày cuối, chúng ta sẽ càng cuống: “Ôi còn nhiều thứ phải học quá”, và hiển nhiên ta sẽ bị lực đè nặng. Nhiều người sẽ thức ngày thức đêm để cày bù dẫn đến ảnh hưởng sức khỏe nghiêm trọng, cũng có người buông luôn, vì cố cũng chẳng kịp. hoảng quá mà. Ý ở đây có nghĩa là không cần quá vội vã nếu chúng ta còn một chút thời gian, điều quan trọng là phải lên kế hoạch tác chiến hợp lý, chớ dục tốc bất đà và đặc biệt phải tuân thủ đúng kế hoạch mình đặt ra. À, còn phải biết ăn chơi ngủ nghỉ đầy đủ nha. Tôi là tôi vẫn cày phim bình thường mà, không phải áp lực quá đâu. 

Tips nhỏ đẩy lùi bệnh trì hoãn:

+ Quy tắc 5 giây: Mỗi khi phải làm một điều gì đó mà bản thân không thích, hãy nhẩm đếm ngược trong đầu: 5, 4, 3, 2, 1 và ngay lập tức bắt tay vào làm nó. Não chúng ta mỗi khi thấy sự đếm ngược đều có phản ứng cần hành động ngay (giống như khi bom hẹn giờ gần hết thời gian, ta sẽ phải chạy đi tìm chỗ an toàn, hay là việc các vận động viên nghe hiệu lệnh đếm ngược đều chuẩn bị tâm lý thi đấu ngay,…)

+ Chia blocks thời gian phù hợp với năng suất của mình: Ví dụ, với Tuyết sẽ có 3 blocks thời gian làm việc năng suất trong ngày: 8h-11h sáng, 2h30-5h30 chiều, 8-10h tối. Chúng ta sẽ định danh công việc cho từng block để không thấy việc chúng ta bị nhiều và thời gian làm việc không bị dài.

+ Mọi người cũng có thể lên mạng tham khảo phương pháp Pomodoro để tăng năng suất việc làm của mình nha.

Thôi xàm xí tý thôi, mọi người đọc để sống lại cảm giác thi Đại học nha. Chúc mọi người luôn làm việc hiệu quả và chăm sóc sức khỏe thật tốt.

Bisous.

– Ánh Tuyết –

Phân biệt ‘faire faire’ và ‘se faire faire’

Đều là yêu cầu người khác làm gì đó, lúc thì có “se” lúc thì không có “se”. Vậy Faire + Vinf khác Se Faire + Vinf thế nào nhỉ?

Hãy cùng Fi phân biệt 2 cụm từ này nhé.

Nhìn chung, chúng ta sẽ hiểu một cách đơn giản như sau :

  • Faire faire = demander à quelqu’un de faire quelque chose (yêu cầu ai đó làm gì)
  • Se faire faire = demander à quelqu’un de faire quelque chose pour nous (yêu cầu ai đó làm gì cho ta, việc đó ta không tự làm được) ? Đây được xem là một cách để thể hiện nghĩa bị động (le passif)

Cụ thể từng cấu trúc như sau :

1. ‘faire faire’ (faire + V-inf)

Cấu trúc câu này còn được gọi là thức hoành cách (voix factitive). Chúng ta có thể gặp 3 dạng như sau:

1.1 Faire + V-inf + Nom (chỉ người) ? Cho phép, yêu cầu ai làm gì

? Danh từ chỉ người ở đây chính là chủ thể của ‘V-inf’

  • Le prof fait entrer les élèves. (Thầy giáo cho học sinh vào lớp)
  • Le prof les fait entrer.
  • Ma mère a fait manger ma sœur. (Mẹ tôi cho em gái tôi ăn) 
  • Ma mère l’a fait manger.

1.2 Faire + V-inf + COD ? Cho phép, yêu cầu làm gì/ cái gì được làm

  • Le prof fait lire le texte. (Thầy giáo cho đọc bài)
  • Le prof le fait lire.
  • Le prof fait faire les exercices. (Thầy giáo cho làm bài tập)
  • Le prof les fait faire.

1.3 Faire + V-inf + COD + à quelqu’un ? Cho phép, yêu cầu ai làm cái gì/ cái gì được làm bởi ai.

  •  Le prof fait lire le texte aux élèves. (Thầy giáo cho học sinh đọc bài)
  • Le prof le leur fait lire.
  • Ma mère fait boire ce lait à mon frère. (Mẹ tôi cho em trai tôi uống sữa này)
  • Ma mère le lui fait boire.
  • Il a fait faire ces exercices à ses élèves. (Thầy giáo đã yêu cầu học sinh của mình làm những bài tập này)
  • Il les leur a fait faire.

Trong các ví dụ vừa rồi, các bạn có thể thấy một điểm rất đặc biệt khi thay thế đại từ bổ ngữ. Hoàn toàn khác với trường hợp câu có 2 động từ, trong đó có 1 động từ nguyên thể. Đại từ bổ ngữ sẽ đặt trước từ “faire”, chứ không phải động từ nguyên thể phía sau, các bạn lưu ý nhé. 

Ex: J’aime contempler les spectacles de la nature. → J’aime les contempler.

 

2. ‘Se faire faire’ (se faire + V-inf)

2.1 Se faire faire ? nhấn mạnh vào hành động

Ex : Il se fait coiffer. 

Câu này có nghĩa là anh ấy được cắt tóc bởi 1 ai đó (Il est coiffé par…) hoặc là có ai đó làm tóc cho anh ta (Quelqu’un le coiffe). Nhưng điều đặc biệt ở đây là cách nói này nhấn mạnh vào hành động được cắt tóc, thay vì nhấn mạnh vào chủ thể gây ra hành động đó. Tức là ý nghĩa nhấn mạnh sẽ khác với câu « Il est coiffé par Paul » (Anh ấy được Paul cắt tóc cho đấy).

2.2 Se faire faire + COD ? nhấn mạnh vào chủ ngữ của câu

Ex : Je me suis fait prendre ma place. / Ma place a été prise.

 Ta thấy hai câu đều có nghĩa như nhau. Song, ở câu đầu, mục đích của người ta là nhấn mạnh vào « je » ? Tôi đã bị mất chỗ. 

Còn ở câu 2 lại chỉ đơn thuần « Chỗ của tôi đã bị mất »

—f—i—

Những điều nhỏ nhưng dễ sai này sẽ được lưu ý kỹ trong các khóa học tại #FIclasse, giúp học viên phân biệt ngay từ đầu, tránh học xong 1 hồi rối loạn hơn =)))

Tham khảo các khóa học tiếng Pháp tại: https://tiengphapthuvi.fr/cat-khoa-hoc/khoa-hoc/

Trois façons de poser une question – Ba cách để đặt một câu hỏi

Ngôn ngữ Pháp thực sự rất linh hoạt, để đặt một câu hỏi, chúng ta có những 3 cách khác nhau, phụ thuộc vào mục tiêu giao tiếp của câu hỏi. Trong bài này Fi sẽ giúp các bạn khám phá cả 3 cách này để sử dụng ngôn ngữ một cách dễ dàng hơn nha !

Chúng ta cần lưu ý, có 2 dạng câu hỏi: câu hỏi không có từ để hỏi và câu hỏi có từ để hỏi. 2 dạng câu hỏi này chúng ta đều có 3 cách đặt như sau:

1. Langue formelle (Ngôn ngữ trang trọng)

  • Cách đặt câu hỏi này, chúng ta cần đảo vị trí ĐỘNG TỪ và CHỦ NGỮ cho nhau, người ta gọi đơn giản là inversion (đảo ngữ) ? Verbe – Sujet (nhớ phải có dấu gạch nối nha)

Ex : Avez-vous des enfants ? (Bạn có con chưa ?)

  • Với câu hỏi có từ để hỏi, từ để hỏi sẽ đứng đầu câu.

habitez-vous ? (Bạn sống ở đâu ?)

Que regardez-vous ? (Bạn xem cái gì vậy ?)

  • Đây có thể nói là dạng đặt câu hỏi “mất công” nhất haha, đặc biệt là khi đó là động từ phản thân (les verbes pronominaux)

Ex : À quelle heure vous levez-vous ?

Các bạn còn phân biệt được 2 từ “vous” này không? Chúng không phải sinh đôi, chỉ là cùng tên thôi nhé 😀 “Vous” đứng trước là đại từ, “vous” đứng sau động từ là chủ ngữ nhé. 

Quy tắc là, “vứt” đại từ phản thân lên trước, rồi đảo động từ với chủ ngữ như bình thường.

  • Câu hỏi trang trọng, dĩ nhiên là dùng trong trường hợp … trang trọng rồi: thường là trong ngôn ngữ viết, trong các văn bản chính thống. Nếu đọc câu hỏi này, bạn nhớ xuống giọng ở cuối câu. 

2. Langue courante (Ngôn ngữ thông dụng)

  • Trong ngôn ngữ thông dụng, chúng ta thường thêm cụm từ « est-ce que » vào để khỏi phải đảo ngữ.

Ex : Est-ce que vous avez des enfants ?

  • Trong câu hỏi có từ để hỏi, từ để hỏi vẫn đứng đầu câu, tiếp theo đó mới là “Est-ce que”. Rất nhiều bạn nhầm là đặt “Est-ce que” lên đầu câu, các bạn đặc biệt chú ý nhé. 

est-ce que vous habitez ?

Qu’est-ce que vous regardez ?

Phải công nhận là thêm cụm này vào tiện thật, khỏi phải mất công suy nghĩ đến việc đảo động từ – chủ ngữ.

  • Cách này thường được dùng ngôn ngữ nói, dùng được hầu hết mọi trường hợp, kể cả giao tiếp lịch sự thân mật. Chúng ta xuống giọng cuối câu.

3. Langue familière (Ngôn ngữ thân mật)

  • Với cách đặt câu hỏi dạng này thì quá tiện cho người lười luôn hí hí. Chúng ta chỉ cần nói câu khẳng định bình thường nhưng lên giọng ở cuối câu là xong. Người ta gọi là sử dụng «intonation» (ngữ điệu) để đặt câu hỏi.

Ex : Vous avez des enfants ?

Vous habitez où ?

Vous regardez quoi ? 

=> Ở đây, “que” đã biến thành “quoi” khi nó không còn đứng ở đầu câu nữa. 

Còn nữa, chú ý đây : « Que » sẽ biến thành « quoi » khi đi với một giới từ 

Ex : Avec quoi jouez-vous ? (Bạn chơi với cái gì thế ?)

De quoi parles-tu ? (Bạn nói chuyện về cái gì vậy ?)

  • Cách đặt câu hỏi này chỉ dùng trong tình huống thân mật như là trong gia đình, giữa bạn bè thân thiết. 

Oh là là, như vậy là chúng ta đã cùng nhau điểm qua 3 cách đặt câu hỏi tiếng Pháp rồi. Như tiêu đề của mỗi cách, chúng ta cần sử dụng trong từng trường hợp giao tiếp sao cho phù hợp nha. Vậy thôi, chúc mọi người học tốt.

– Ánh Tuyết –

Danh ngôn tiếng Pháp chủ đề Sự phán xét (Jugement)

Một chủ đề danh ngôn “khá lạ” – Sự phán xét, cùng xem trong tiếng Pháp chúng được thể hiện như thế nào nhé!

1. Ne me juges pas, par par ce que tu vois… Je suis une longue histoire que tes yeux n’ont jamais lu!

Đừng phán xét tôi bởi những gì bạn thấy… Tôi là một câu chuyện dài mà mắt bạn chưa bao giờ đọc được!

2. Juger une personne ne définit pas qui elle est, mais plutôt qui vous êtes.

Phán xét một người không cắt nghĩa được họ là ai, nhưng lại cắt nghĩa được bạn là ai.

3. Dernière une apparence normale peut cacher une âme triste ou un coeur brisé. Alors ne jugez pas sans savoir…

Đằng sau một vẻ ngoài bình thường có thể ẩn giấu một tâm hồn buồn bã hay một trái tim tổn thương. Vậy nên, đừng phán xét khi không biết…

4. Réfléchir est difficile, c’est pourquoi la plupart des gens jugent.

Nghĩ thì khó, đó là lý do vì sao phần lớn mọi người lại phán xét.

5. N’écoutez pas les ragots sur quelqu’un. Apprenez à avoir votre propre jugement ! Car vous risquez de passer à côté de personnes formidables à cause de personnes forts minables qui aiment dénigrer les autres !

Đừng nghe những lời đàm tiếu về ai đó. Hãy học cách để có nhận định của riêng bạn! Bởi bạn có thể bỏ lỡ những người tuyệt vời chỉ vì những kẻ kém cỏi thích gièm pha người khác!

6. La déception ne vient jamais des autres, elle n’est que le reflet de nos erreurs de jugement.

Sự thất vọng không bao giờ đến từ người khác, nó chỉ phản ánh những sai sót trong phán xét của chính mình.

7. Ce n’est pas l’histoire qui fait le jugement : c’est le jugement qui fait l’histoire.

Không phải câu chuyện tạo ra sự phán xét, mà chính sự phán xét mới tạo nên câu chuyện.

8. L’ennui est une sorte de jugement d’avance.

Sự nhàm chán trước tiên chính là nguồn gốc của sự phán xét.

9. On est souvent trop prompt dans nos jugements, on juge autrui sur notre première impression.

Chúng ta thường quá vội vàng khi phán xét, chúng ta phán xét người khác ngay từ ấn tượng ban đầu.

– Ánh Tuyết –

Phân biệt nghĩa và cách sử dụng của Apprendre và Étudier

Hầu như trong các trường hợp, chúng mình đều dịch 2 từ Apprendre và Étudier sang tiếng Việt là “học”. Vậy suy cho cùng, chúng có đồng nghĩa hay không, sử dụng có giống nhau không? Câu trả lời là tuy có điểm tương đồng nhưng sử dụng khác nhau rất to nhé!

 – Étudier : học có tính chất nghiên cứu, chúng ta sẽ đào sâu, hiểu cách vận hành của một sự vật, hiện tượng, một vấn đề. 

Apprendre : học để biết mà làm cái gì, chúng ta sẽ trau dồi, làm giàu vốn hiểu biết của mình

Lấy ví dụ nha! 

Ex : + Étudier quelque chose

  • Étudier un projet : nghiên cứ một dự án
  • Étudier la psychologie : theo học ngành tâm lý

+ Étudier à l’étranger : đi du học

—————————————————————

+  Apprendre à + V-inf: học làm gì 

Apprendre à faire du vélo, à cuisiner, à nager : học đi xe đạp, nấu ăn, bơi

+ Apprendre quelque chose: học cái gì

  • Apprendre sa leçon : học bài
  • Apprendre la cuisine: học nấu ăn
  • Apprendre la langue: học ngôn ngữ

+ Apprendre par cœur : học thuộc lòng

————————————————————–

Ngoài ra thì apprendre còn có một số nghĩa như sau:

+ Apprendre à quelqu’un à faire quelque chose / Apprendre quelque chose à quelqu’un: dạy ai làm gì, dạy ai cái gì (=enseigner)

Apprendre à lire à un enfant: dạy trẻ đọc

Apprendre à quelqu’un un métier: dạy nghề cho ai

+ Apprendre quelque chose: báo tin và biêt được tin tức gì (= informer et être informé)

  • Apprendre une nouvelle à quelqu’un: báo tin cho ai
  • Apprendre une nouvelle de quelqu’un : biết được tin gì về ai

Những điều nhỏ nhưng dễ sai này sẽ được lưu ý kỹ trong các khóa học tại #FIclasse, giúp học viên phân biệt ngay từ đầu, tránh học xong 1 hồi rối loạn hơn =)))

Tham khảo các khóa học tiếng Pháp tại: https://tiengphapthuvi.fr/cat-khoa-hoc/khoa-hoc/

– Ánh Tuyết – 

Des journée internationales célèbres – Các ngày quốc tế nổi tiếng

Chúng ta đều biết đến những ngày quốc tế vô cùng quen thuộc như quốc tế phụ nữ 8/3 (journée internationale de la femme), ngày sức khỏe thế giới 7/4 (journée mondiale de la santé), và đặc biệt là một francophone/francophile, chúng ta chắc phải biết tới ngày hội Pháp ngữ 20/3 (journée de la langue française),… Vậy hôm nay hãy cùng Fi ngồi lại đây và tổng hợp một vài ngày quốc tế quan trọng trong năm và xem xem bạn biết được bao nhiêu ngày nhé.

1. 20/3 – Journée internationale du bonheur (Ngày quốc tế hạnh phúc)

6/2012, Tổng Thư ký Liên hiệp quốc Ban-Ki-Moon công bố về Ngày Quốc tế Hạnh phúc 20/3 tại một hội nghị của Liên hiệp quốc về vấn đề này.

Ngày Hạnh phúc được lấy từ ý tưởng của Vương quốc Bhutan, một quốc gia bé nhỏ ở khu vực Nam Á, nằm sâu trong lục địa miền đông Himalayas, vốn được đánh giá là nước có chỉ số hạnh phúc cao dựa trên các yếu tố như: sức khỏe, tinh thần, giáo dục, môi trường, chất lượng quản lý và mức sống của người dân. Khác với các nước khác, mục tiêu của đất nước là hạnh phúc của người dân, chứ không phải tổng sản phẩm quốc nội. 

Liên hiệp quốc chọn ngày 20/3 là Ngày Quốc tế Hạnh phúc vì đây là ngày đặc biệt nhất trong năm – ngày xuân phân. Khi ấy, mặt trời nằm ngang đường xích đạo, độ dài của ngày và đêm bằng nhau đại diện cho sự cân bằng, hài hòa của vũ trụ, giữa âm và dương, giữa ánh sáng và bóng tối, giữa ước mơ và hiện thực. Với ý nghĩa đó, Ngày Quốc tế Hạnh Phúc mang một thông điệp rằng: sự cân bằng, hài hòa là một trong những chìa khóa để mang đến hạnh phúc.

2. 6/7 – Journée internationale du baiser (Ngày quốc tế nụ hôn)

Bắt nguồn từ nước Anh, ngày lễ đặc biệt này lan rộng khắp và cuối cùng được Liên hợp quốc chính thức công nhận từ năm 2006, để đề cao tình cảm của con người trong xã hội. Trong cuộc sống bề bộn thường ngày, ta thường quên đi việc trao cho nhau những cử chỉ âu yếm thể hiện tình cảm thân thiết. Chính vì thế ngày này được ra đời để tạo cơ hội cho mọi người bày tỏ những tình cảm cao quý đó. 

Ở Việt Nam, ngày này chưa được phổ biến như Lễ Tình Nhân 14/2. Song, một số bạn trẻ lại rất hào hứng với ngày lễ đáng yêu này. 

Chúng ta có rất nhiều kiểu hôn, mà mỗi kiểu hôn lại mang một ý nghĩa riêng của nó:

  • Hôn lên trán : Đây là nụ hôn âu yếm, có ý trân trọng đối phương. Khi ai đó hôn lên trán bạn, chắc chắn anh ấy có tình cảm với bạn, và đây cũng là nụ hôn mang ý nghĩa thăm dò, nếu bạn bật đèn xanh, rất có thể sẽ tiến đến nụ hôn môi. Còn nếu bạn tỏ ra thờ ơ hay khó chịu, anh ấy sẽ biết ngay bạn không có tình cảm với anh ấy.
  • Hôn má : Khi chàng hôn lên má bạn, ý nghĩa của nụ hôn đó là tình anh em, anh ấy coi bạn là một người em gái. Một nụ hôn chưa đủ mặn nồng để gọi là tình yêu, nhưng cũng không quá lạnh nhạt để coi đó là tình bạn. Trong nụ hôn ấy vẫn tồn tại một thứ, đó là khoảng cách.
  • Hôn lên tay : Đây là kiểu hôn bảy tỏ sự lịch lãm, tôn trọng người phụ nữ đứng trước mình.
  • Hôn lên môi : Theo quan niệm của người phương Đông thì hôn môi chính là nụ hôn của tình yêu, chỉ có cặp đôi yêu nhau thì mới khóa môi nhau.
  • Hôn lên cổ: Thông thường rất ít người hôn lên cổ, chỉ có những cặp đôi yêu nhau mới dành cho nhau nụ hôn này. Khi chàng hôn lên cổ bạn nghĩa là chàng đang muốn chiếm lấy bạn, muốn thể hiện tình cảm sâu sắc với bạn.

3. 15/5 – Journée internationale des familles (Ngày quốc tế gia đình)

Năm 1993, Đại hội đồng Liên hợp quốc đã quyết định lấy ngày 15/5 hàng năm để kỷ niệm Ngày Quốc tế Gia đình với mục đích nâng cao nhận thức về các vấn đề gia đình và tăng cường khả năng của các quốc gia trong việc thực hiện các chính sách toàn diện về những vấn đề liên quan đến gia đình.

Mỗi gia đình chính là một tế bào trong một cơ thể chung chính là xã hội. Bảo đảm sự yên ấm và hạnh phúc của mỗi gia đình không chỉ đòi hỏi nỗ lực từ chính các thành viên trong nội bộ gia đình mà còn cần thiện chí và sự chung tay của cả cộng đồng quốc tế, để từ đó xây dựng một thế giới hòa bình, ổn định và phát triển bền vững.

4. 31/5 – Journée mondiale sans tabac (Ngày thế giới phòng chống thuốc lá)

Hội đồng Y tế thế giới (World Health Assembly) vào năm 1987 đã lấy ngày 31 tháng 5 hàng năm làm Ngày Thế giới không thuốc lá. Mục đích nhằm tạo ra và khuyến khích khoảng thời gian 24 tiếng không có khói thuốc lá trên toàn cầu. Mục đích xa hơn là gây sự chú ý của cộng đồng đến tác hại của thuốc lá đối với người hút thuốc lá chủ động cũng như bị động, mà mỗi năm cướp đi sinh mạng của khoảng 5,4 triệu người trên toàn cầu.

Tại Việt Nam, mỗi năm có hơn 40.000 người chết do thuốc lá. Theo ước tính của WHO, con số này có thể tăng thành 70.000 trường hợp mỗi năm nếu không có các biện pháp phòng ngừa hiệu quả. Tổn thất về kinh tế của thuốc lá ước tính hơn 24.600 tỷ đồng hay 1,17 tỷ USD mỗi năm. 

Tác động gây hại của thuốc lá với sức khoẻ và nền kinh tế tích tụ theo thời gian, vì vậy cần phải có hành động để ngăn ngừa xu hướng tiếp tục gia tăng số tử vong do thuốc lá và những tổn thất kinh tế do nó gây ra trong những năm tới.

5. 1/6 – Journée mondiale des parents (Ngày Quốc tế phụ huynh)

Nếu như chúng ta thường biết đến 1/6 là ngày Quốc tế Thiếu nhi thì cần chú ý thêm, đây cũng chính là ngày quốc tế phụ huynh. Đây là dịp để đề cao vai trò của phụ huynh trên toàn thế giới trong việc chăm sóc, bảo vệ, và đảm bảo sự phát triển toàn diện cho trẻ em. 

Phụ huynh tốt là những bậc phụ huynh đem đến cho con mình hạnh phúc, tình yêu thương, sự thấu hiểu, cơ hội phát triển và hơn hết, dạy cho con những kỹ năng để bản lĩnh bước vào đời trong tương lai.

Còn đối với con cái, vào ngày này, chúng ta hãy dành những tình cảm yêu quý, kính trọng gửi đến bố, đến mẹ, đến những bậc phụ huynh đã nuôi dạy ta trong suốt quãng thời gian qua. Hãy tặng họ những món quà nho nhỏ mà chứa đựng những tình cảm âu yếm, chan chứa, một lòng biết ơn sâu sắc, nồng thắm.

6. 1/12 – Journée mondiale de lutte contre le sida (Ngày thế giới phòng chống AIDS)

Ngày thế giới phòng chống bệnh AIDS là ngày lễ quốc tế vào ngày 1 tháng 12 hàng năm, nhằm nâng cao nhận thức về nạn dịch AIDS do việc lây nhiễm HIV, và để tưởng nhớ các nạn nhân đã chết vì HIV/AIDS.

Thay vì tập trung vào một ngày duy nhất, Chương trình chung của Liên Hiệp Quốc về HIV/AID đã lập ra “Chiến dịch thế giới phòng chống AIDS” vào năm 1997 để tập trung vào thông tin, phòng chống và giáo dục về HIV/AIDS quanh năm. 

Tính đến năm 2017, tổng số người nhiễm HIV trên toàn thế giới là 36,9 triệu người, trong đó tập trung đông nhất ở khu vực Bắc và Nam Phi với 19,6 triệu người. Ngoài ra, số lượng trẻ em dưới 15 tuổi nhiễm HIV là 1,8 triệu trẻ.

Năm 2004, “Chiến dịch thế giới phòng chống bệnh AIDS” đã trở thành một tổ chức độc lập.

Dải băng đỏ là biểu tượng toàn cầu cho tình đoàn kết với những người nhiễm HIV và những người bị bệnh AIDS.

– Ánh Tuyết – 

Không khí ngày khai giảng của các nước trên thế giới

Ngày 5/9/1945 – 3 ngày sau khi đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa, chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư cho các em học sinh nhân khai trường đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ngày này hàng năm vì thế mà có ý nghĩa rất quan trọng đối với thế hệ các em học sinh, sinh viên của Việt Nam.

5/9 là ngày khai trường ở Việt Nam, vậy trên thế giới thì thế nào? Các nước có phải cũng khai giảng vào ngày này không? Hãy cùng Fi tìm hiểu nhé!

1. Mỹ:

Khai giảng ở Mỹ thường không cố định, phụ thuộc nhiều vào quyết định của các bang. Tuy nhiên, thông thường ngày khai giảng các trường sẽ diễn ra vào tuần đầu hoặc tuần thứ hai của tháng 9.

Vào những ngày này, học sinh đến trường chỉ để tham gia những hoạt động ngoại khóa, tiếp xúc bạn bè, thầy cô, chứ không có những nghi thức gì cả. Thậm chí, ở một số trường cấp 3, học sinh sẽ đến sớm hơn 1-2 ngày để được hướng nghiệp, làm quen với môi trường mới và các nội quy của trường học.

2. Pháp:

Lễ khai giảng ở Pháp rất đơn giản và gần gũi, không bóng bay. Năm học mới ở Pháp bắt đầu ngày 1/9. Trước đó một ngày, giáo viên đến trường để chuẩn bị cho buổi lên lớp đầu tiên.

Các trường không có nghi thức gì, chỉ tập trung vào việc cho học sinh tiếp xúc với thầy cô, bạn bè mới. Sau đó, học sinh vào lớp học như ngày thường.

3. Nga:

Thời gian biểu của các học sinh Nga khá tương đồng với Việt Nam: bắt đầu từ tháng 9 và kết thúc vào tháng 5 năm sau. 

Lễ khai giảng được tổ chức ngày 1/9, các học sinh sẽ diễu hành trên những trục đường chính rồi tỏa về từng trường. Ai cũng cầm trên tay một bó hoa để tặng các thầy cô của mình.

4. Trung Quốc:

Ở Trung Quốc, ngày khai giảng thường tổ chức vào mùng 1/9.

Học sinh sẽ mặc đồng phục đến trường. Hiệu trưởng nói lời khai giảng, sau đó các thầy cô tặng cho học sinh một cuốn từ điển – tượng trưng cho việc trao cho các em nguồn tri thức, cũng có khi tặng cho các em những bộ sách giáo khoa. Sau đó, các em cùng thầy cô về nhận lớp.

5. Nhật Bản:

Một năm của học sinh Nhật Bản kéo dài trọn 1 năm (từ tháng 4 năm trước sang hết tháng 3 năm sau), nhưng bù lại các em được nghỉ 3 lần gồm nghỉ hè, nghỉ đông, nghỉ xuân, chia 1 năm ra thành 3 kỳ học. Ngày khai giảng sẽ do từng trường tự quyết định rồi thông báo với học sinh.

Lễ khai giảng được tổ chức đơn giản, thông thường do trường quyết định, thường vào tháng 4. 

Cách tổ chức không nặng về phần nghi. Vào ngày khai giảng, học sinh đến gặp gỡ các bạn, sau đó giáo viên đưa học sinh về lớp và căn dặn các em nội quy.

Bạn thấy hứng thú nhất với ngày khai giảng của quốc gia nào?

– Ánh Tuyết –